Thứ Hai, 28 tháng 11, 2011

“Trách” và “Chúc”


Vậy là 3 môn thi đầu tiên của học kì này đã được hoàn thành. Mặc dù có nhiều điều để nói về nó nhưng thực sự chỉ nên bằng lòng với kết quả ấy mà thôi. Mình không thích đòi hỏi quá nhiều khi thực tế mình cũng rất lười. Không biết các bạn của mình sao nhỉ?
Học với nhau 3 năm, mà lớp cũng chẳng nhiều những kỷ niệm, chẳng có hình trên đó bao nhiêu. Thực sự thì lớp cũng khá năng động, vậy mà thật ít người chịu khó một chút vì tinh thần tập thể. Kêu lập blog để chia sẻ kiến thức, trang bị thông tin và lưu giữ những điều tốt đẹp, vậy mà từ khi lập Blog đến giờ, chẳng có ai buồn lên viết gì cả. Buồn thay, chẳng biết họ có vào trang này không nữa chứ mong mỏi gì.
Nhiều khi bận bịu lên mạng tìm thông tin, mà chẳng thấy có điều gì hay lại chạy vào viết Blog. Hiểu rằng ai cũng bận để học, nhưng chúng ta sống quãng đời sinh viên đâu chỉ có học không là đủ cả. Kiến thức, kinh nghiệm, chuyện vui buồn, ai chẳng muốn được chia sẻ với những người bạn cùng học, cùng cảnh ngộ xa nhà. Chúng ta nên biết sống vì nhau một chút. Cho đi thời gian thì bạn sẽ nhận thời gian, cho đi những kỷ niệm thì bạn sẽ nhận thêm được những ký niệm. Dẫu biết vậy nhưng đâu phải ai cũng làm đâu.
Các bạn ạ! Tôi chẳng muốn viết những dòng này để mong các bạn đóng góp một cách gượng ép cho trang web này. Nhưng điều gì có thể làm thì ngại gì mà ta chẳng làm. Không phải chúng ta thường hát “bài ca thanh niên” có câu “Đâu cần là thanh niên có, đâu khó có thanh niên sao”? Sống và học tập, còn biết vui chơi nữa mới là cuộc sống có ý nghĩa!
Chúc các bạn học tốt và thi đạt kết quả cao!

Thứ Hai, 10 tháng 10, 2011

Thông tin về cuộc thi


Những cặp đôi đầu tiên
Tôi xin trích dẫn đến Blog của lớp hình ảnh của những cặp đôi đầu tiên. Đây là những cặp đôi cùng lớp, và hình ảnh được trích từ Album ảnh thực tế được chụp vào tháng 6 năm 2010.

 Nguyễn Thị Nhàn và Lò Duy Bưu

 Nguyễn Thị Trang và Bùi Văn Thiết


Lê Thị Thanh Diễn và Phan Văn Hiệu

 Nguyễn Thị Nhàn và Hoàng Văn Giáp


Nguyễn Thị Thanh và Lê Quốc Lực.

Các bức ảnh tiếp theo sẽ tiếp tục được cập nhật trong số mới nhất. Xin các bạn bình chon và gửi lời nhắn trong những bức ảnh mình yêu thích. Xin cảm ơn !

Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2011

Loa loa loa… Sắp có tin sốc!

Được sự đồng ý của cô giáo chủ nhiệm và ban cán sự lớp CN Ngữ văn, chúng tôi đang tổ chức một cuộc thi tìm kiếm những cặp đôi có những bức ảnh thú vị. Cuộc thi sẽ được tổ chức từ ngày 10 – 10 đến ngày 20 – 10 – 1011. Bức ảnh nào được nhiều người bình chọn nhất sẽ nhận được giải thưởng do tập thể lớp và Cô giáo chủ nhiệm trao tặng. Kết quả sẽ được công bố và giải thưởng sẽ được trao vào ngày tổng kết cuộc thi, cũng là ngày kỷ niệm ngày phụ nữ Việt Nam 20 – 10.
1. Điều kiện tham gia cuộc thi :
-         Toàn bộ thành viên của lớp CN Ngữ văn K09 (có thể đang học hoặc đã thôi học)
-         Ảnh chỉ có hai người (bắt buộc một thành viên là của lớp còn người kia phải khác phái)
-         Những bức ảnh gửi tới Ban tổ chức phải ghi rõ tên của 2 thành viên, nguồn gốc của bức ảnh (tức là địa điểm chụp).
-         Các thành viên có thể gửi 1 hoặc nhiều bức ảnh của mình (BTC không giới hạn số lượng ảnh)
2. Thể lệ
- Những thành viên muốn tham gia, phải gửi ảnh về địa chỉ : phuoctk88@gmail.com  (ảnh của bạn sẽ được tự động post lên Blog của lớp để có được sự bình chọn sớm nhất)
- Địa chỉ tìm hiểu thông tin và trực tiếp để bình chọn : http://cunhanvank09.blogspot.com/
- Ban tổ chức không trao giải cho những bức ảnh không phù hợp với điều kiện nêu trên.
3. Kết quả và giải thưởng
- Các bức ảnh có số lượng bình chọn nhiều nhất sẽ được trao giải. (Gồm 01 giải Nhất, 02 giải Nhì và 03 giải Ba)
- Mỗi thành viên của lớp chỉ được bình chọn duy nhất một bức ảnh trong một lươt truy cập (cũng có thể bình chọn cho nhiều bức ảnh tùy theo thời điểm bức ảnh được công bố trên Blog lớp)
- BTC công nhận tất cả các số lượng bình chọn cho bức ảnh (kể cả đó là những thành viên không phải trong lớp)
- Kết quả sẽ được tổng kết vào hồi 10h00’ ngày 20 – 10 – 2011.
- Giải thưởng và các danh hiệu sẽ được trao ngay sau khi công bố kết quả (giải thưởng sẽ rất bất ngờ)

                                                                                          BTC. Thông báo

Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2011

10 – 9, ngày đặc biệt

Chẳng thể  biết rằng trong năm có bao nhiêu sinh nhật của người thân mà bạn còn nhớ. Nhưng hôm nay, thật là một ngày đặc biệt đối với tôi, và có lẽ là rất nhiều người nữa.
Hôm nay, lớp chúng tôi tổ chức Đại hội Đoàn, tổng kết hoạt động của năm 2010 – 1011 và đề ra phương hướng hoạt động trong năm học tới. Tất cả mọi người hôm nay thật dễ thương, không biết là do thực tế hay là do cảm nhận của tôi nữa. Đại hội diễn ra suôn sẻ và có vẻ thành công, ai cũng vui vì được gặp mặt nhau trong một buổi tối hiếm hoi, nhất là có sự góp mặt của cô giáo chủ nhiệm sau thời gian cô nghỉ. Cô mạnh khỏe và vui vẻ, có lẽ đó là niềm vui lớn nhất của chúng tôi.
 Ai cũng ăn mặc đẹp

Trao phần thưởng - ai cũng vui

Nhưng hôm nay còn là một ngày đặc biệt nữa, vì đó là cũng là sinh nhật của 4 thành viên trong lớp. Có lẽ đối với họ, đây sẽ là ngày buồn vì họ phải lên trường chứ không được đi chơi cùng những người thân nhưng có lẽ họ sẽ hạnh phúc hơn khi nhận được lời chúc của tất cả những thành viên trong lớp.
H' Thu H'Long (bên trái)

Bé hạt tiêu - Mai Thị Diệu Hảo (bên trái)

Lê Trương Bích Hiệp
Bởi vậy, tôi xin mạn phép đại diện cho tất cả thành viên trong lớp CN Ngữ văn K09, được gửi những lời chúc thân thương nhất tới : Cao Thị Kim Ánh, H’Thu H’Long, Mai Thị Diệu Hảo và Lê Trương Bích Hiệp – những người có trùng ngày sinh nhật hôm nay những lời chúc tốt đẹp nhất. Chúc cho các bạn luôn vui vẻ, mạnh khỏe và thành công!
Happy Birthday!

Thứ Hai, 5 tháng 9, 2011

"Vô tình" - Ai đã đọc cho tôi nghe?


Tuy học văn nhưng thực sự mà nói, khả năng văn chương của tôi rất tệ. Ngoài thời gian học trên lớp, ít khi tôi đọc sách văn ở nhà. Vậy nên càng ngày càng thấy kiến thức của mình đi xuống. Kết quả này thật không có gì bất ngờ đối với một thằng lười như tôi.
Tuy nhiên, ông trời cũng không bất công với ai bao giờ cả. Tôi có khả năng ghi nhớ rất tốt (tuy không còn như trước kia vì uống cà phê quá nhiều) nên những gì học trên lớp cũng có vẻ “ngấm” vào trong đầu được. Thật sự thì nhớ những chuyện ngoài lề thôi, chứ nếu mà ghi nhớ tốt kiến thức thầy cô giảng thì đâu có tụt dốc.
Trong thời gian lên lớp, mỗi giáo viên có một phong cách riêng. Ở họ, chúng tôi tìm thấy những suy nghĩ và cách sống mẫu mực (nhưng không phải tất cả dâu) cần phải học hỏi. Học ngành văn nên có lẽ những gì đọng lại trong đầu cũng toàn là văn, hoặc là những câu chuyện, hay quan điểm gì đó,… nói chung chủ yếu là văn thơ.
Có những thứ người ta nghe xong có thể quên ngay, nhưng có những thứ không bao giờ quên được. Càng học, chúng ta càng có thêm những tri thức mới để chúng ta biết được mình là ai trên thế giới này. Văn học có chức năng là thay đổi con người, điều đó cũng dễ hiều. Bởi lẽ, những gì được viết ra và được công chúng chấp nhận trong suốt một thời gian như vậy thì không thể không đẹp được.
Tuy nhiên, để những thứ đó “ngấm” được vào trong đầu bạn thì cần phải có phương tiện chuyển tải. Dù hiện nay, có rất nhiều cách thức để tìm hiều văn chương nhưng thông thường chúng ta vẫn thích được người đi trước giảng giải hơn. Chính vì vậy mà ai cũng nói dạy văn là khó nhất. Khó ở chỗ phải đem cái hồn của mình vào trong bài giảng để cho học sinh thực sự thích nghe, thích học.
Không nhiều người làm được điều đó, mặc dù ai cũng hiều là như vậy. Thế nhưng, học sinh vẫn ấn tượng với một điều gì đó ở người dạy, dù chỉ là một bài thơ hay một câu chuyện. Và tôi cũng vậy.
Không đọc nhiều, nên nghe cái gì cũng mới, cái gì cũng hay. Tuần trước, tôi được nghe bài thơ có tên là “Vô tình”, tác giả là ai thì chắc ai cũng biết (Tôi cũng mới vừa biết thôi). Một bài thơ sáng tác cách đây gần 2 thế kỉ mà nghe như một nhà thơ hiện đại viết vậy. Gần gũi với chúng ta lắm, thân thuộc với chúng ta lắm.
Tôi xin được post lên để các bạn cùng tham khảo (Nếu ai thấy hay thì cố gắng thuộc nhé)
Vô tình
Vô tình anh gặp em
Rồi vô tình thương nhớ
Đời vô tình nghiệt ngã
Nên chúng mình yêu nhau.
Vô tình nói một câu
Thế là em hờn dỗi
Vô tình anh chẳng nói
Nên đôi mình xa nhau.
Chẳng ai hiều vì đâu
Đường đời chia hai ngã
Chẳng ai có lỗi cả
Chỉ vô tình mà thôi.
Vô tình suốt cuộc đời,
Anh buồn đau mải miết
Vô tình em không biết
Hay vô tình em quên?
Anh buồn đau mải miết
Cả cuộc đời không quên!
Chỉ vô tình mà thôi
Chẳng ai có lỗi cả
Đường đời chia hai ngã
Chẳng ai hiểu vì đâu.
Vô tình anh không nói
Vô tình nói một câu
Thế là em hờn dỗi
Thế là mình xa nhau.
Giá như mình yêu nhau,
Đời chắc không nghiệt ngã,
Trời cũng thương cũng nhớ
Cho mình lại gặp nhau.
Tình yêu là như vậy. Người ta cứ yêu rồi lại xa nhau. Khi tình yêu thất bại, họ có xu hướng đổ lỗi cho nhau, và ai cũng chẳng muốn nhận lỗi về mình cả. Họ chẳng biết rằng không ai có lỗi cả, đơn giản chỉ vì chúng ta không thuộc về nhau thôi.
Cuộc sống vốn luôn vô tình, nên tình yêu có một sức mạnh khủng khiếp có thể giúp con người vượt qua mọi khó khăn và vươn lên. Cũng không thiều những trường hợp vì tình yêu nên đã đạp đổ tất cả, cũng chỉ vì mong muốn sở hữu quá cao và không chấp nhận thất bại.
Tình yêu có tất cả những gia vị, nhưng ai chẳng mong muốn có được sự ngọt ngào. Ai cũng nói rằng “yêu là khổ” nhưng rồi cũng cứ cắm đầu vào mà yêu, để rồi mà khổ. Giá như con người ta không “vô tình”, giá như họ biết trân trọng những gì đang có, thì tình yêu trên thế gian này sẽ đẹp biết nhường nào.
Nếu bạn là người yêu thích văn chương, nếu bạn là người quan tâm đến thơ tình, hoặc nếu bạn đã từng yêu và từng thất bại trong tình yêu, hãy cho chúng tôi biết được những gì bạn nghĩ được sau khi đọc bài thơ này nhé!

Thứ Bảy, 3 tháng 9, 2011

Định nghĩa vui về các môn học


Toán học
Đây là môn khoa học duy nhất không có sự bổ ích. Ban đầu, người ta dạy cho bạn 1+1= 2, để rồi sau khi học hết PTTH, họ lại dạy 1+1=10 và nói cho bạn biết hệ nhị phân là gì. Người ta cũng dạy bạn vi phân, tích phân và nhiều thứ quan trọng khác nhưng nói chung, bạn vẫn phải sử dụng máy tính bỏ túi khi đi chợ.
Vật lí
Môn học nghiên cứu sự rung của táo và các loại quả khác. Bạn cũng học được cách tình giờ tàu chạy và khi nào hai con tàu gặp nhau nếu chạy trên cùng một… đường ray. Người học vật lí xong sẽ ít đi trồng táo hoặc đi tàu hỏa.
Hóa học
Môn học phải ghi nhớ những câu trả lời đúng và những bài thí nghiệm. Đổ lọ này vào lọ kia, lắc hoặc khuấy, nhiều lúc phải đun lên,… rồi cuối cùng là đổ ra vườn, đó là thí nghiệm.
Sinh học
Môn học nghiên cứu ruồi giấm và một số vật nuôi trong nhà khác. Tuy nhiên, nếu ta hỏi một người lớn rằng “Làm sao để có được em bé?” Thế nào ta cũng nhận được câu trả lời: “Có con cò mang em bé đến và đặt lên cửa sổ cho các bà mẹ.
Địa lý
Môn học này dạy bạn cách xem bản đồ và bạn phải tìm ra Châu Mĩ trên bản đồ thế giới. Đây có lẽ là môn học mới mẻ nhất vì trước khi C. Columbus chưa tìm ra Châu Mĩ, chắc chưa ai phải học môn này cả.
Lịch sử
Các thầy giáo sẽ bắt các bạn nhớ xem ai đã lật đổ một ông vua nào đó.
Nhiều khi bạn phải nhớ ngày sinh của một ông hoàng hay bà chúa nào đó mặc dù ông ta không làm sinh nhật, mà bạn cũng chẳng cần phải nhớ để tặng quà.
Văn học
Bạn phải đọc một quyển sách dày đến nỗi bạn chỉ kịp liếc qua cái tên của nó trước khi bước vào phòng thi. Sau khi học xong môn này, bạn sẽ có thể biết Huy Gô và Huy Cận không phải là hai anh em hay Xuân Diệu không phải là nhà buôn bút mặc dù ông ta sống bằng ngòi bút…

Thầy giáo lười nhât và thông minh nhất


Trong ngôi trường nọ, có một ông thầy rất lười dạy. Khi lên lớp, ông luôn tìm cách cho học trò của mình nghỉ. Và thông thường thì ông rất thành công trong vấn đề này.
Học sinh, ai chẳng thích được nghì học. Tuy nhiên, nếu nghỉ quá nhiều, kiến thức rỗng thì lấy gì để mà thi. Chính vì vậy, lớp đang cố gắng tìm cách cho thầy không có lí do gì để không thể không dạy.
Một hôm, lớp có tiết học của thầy. Khi thầy bước vào lớp, không có bất kì một tiếng ồn nào. Thầy nhìn lớp có vẻ rất hài lòng và hỏi:
- Hôm nay chúng ta học bài gì, lớp biết không?
Cả lớp đồng thanh trả lời:
- Dạ. không ạ.
Thầy giáo quát:
- Đi học mà không biết học bài gì thì học làm gì. Lớp nghỉ!
Lớp rất giận thầy nhưng không biết làm sao cả. Vậy là chúng ngồi lại với nhau và tất cả thống nhất hôm sau thầy hỏi gì cũng trả lời là : “Biết” để thầy không cho về nữa.
Hôm sau, lại có tiết thầy. Vẫn như mọi khi, thầy bước vào lớp và có vẻ rất hài lòng. Thầy hỏi:
- Hôm nay lớp có biết chúng ta học bài gì không?
Cả lớp đồng thanh trả lời:
- Dạ. Biết ạ.
Thầy giáo giận dữ, quát:
- Biết rồi thì còn học làm gì nữa. Lớp nghỉ!
Thầy lại không phải dạy và lớp cũng chẳng thể biết làm gì cả. Nhưng lớp cũng không chịu bỏ cuộc. Chúng ngồi lại và tìm ra được một cách, đó là nếu thầy hỏi, một nửa lớp sẽ trả lời “Có”; số còn lại thì “Không”. Chúng hài lòng vì sự sáng tạo của mình và tin chắc là sẽ có kết quả.
Mây hôm sau, lại có tiết của thầy. Cả lớp im lặng và thái độ của thầy vẫn tỏ ra rất hài lòng. Thầy giáo mỉm cười hỏi:
- Hôm nay lớp có biết chúng ta học bài gì không?
Theo kế hoạch, một nửa lớp trả lời  “Có” và một nửa trả lời “Không”.
Lần này, thầy giáo nổi giận và quát:
- Đứa nào biết chỉ cho đứa chưa biết. Tôi còn dạy làm gì nữa? Lớp nghỉ!
Lần này thì cả lớp tiu nghỉu và miệng lẩm bẩm: “Đúng là thầy”! botay.com

Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2011

Tương lai bắt đầu từ thực tại buồn chán – quên đi để tiếp tục sống


Mưa… mưa hoài… mưa miết…
Tây Nguyên - miền đất đỏ bazan với hai mùa mưa nắng. Tháng 9 là tháng bắt đầu mưa những cơn mưa dài và nặng hạt hơn. Không khí âm u khiến người ta nghĩ về một cái gì đó vừa gần vừa xa, vừa có thực lại vừa hư hư ảo ảo.
Ai cũng có tâm trạng, thế nhưng không ai có thể mình diễn tả cho người khác hiểu được mình đang nghĩ gì, nhất là khi đang vướng mắc vào một điều gì đó. Thế rồi, đành phải mượn lấy cây viết, trang giấy hay chiếc máy vi tính làm phương tiện để xua đi những muộn phiền của thực tại, thế là sinh ra cái gọi là nhật kí.
Với tâm trạng không ổn, đôi khi người ta muốn viết thật nhiều, nhưng rồi chưa chắc họ đã viết được gì cả. Tôi cũng vậy, ngay bây giờ, tôi muốn viết thật nhiều, thật nhiều, nhưng rồi không thể. Trạng thái ấy cứ giống như điều gì đó phút chốc ẩn hiện, miên man trong dòng cảm xúc mà không thể chống chế.
Ai cũng có một khối óc, một cái đầu. Thế nhưng, đầu óc đó thật không bình thường, nó suy nghĩ quá nhiều. Nó đặt ra những vấn đề mà ngay cả thực tế hiện thực cũng không có. Nó không bao giờ chấp nhận và xuôi thuận cái đang có, mà muốn cái phải có. Điều đó được gọi là chứng hoang tưởng mà con người hầu như ai cũng có.
Thế rồi, nó cứ cố giải thích, để giành một chiến thắng, dù chỉ là hư vô. Còn khi bế tắc, chúng không chịu thất bại, vậy là nó bắt cả cái đầu làm việc suốt ngày đêm, ngay cả khi chúng ta đi ngủ. Vậy là sinh ra chứng mất ngủ.
Cứ nghĩ rằng ai trong chúng ta có vốn sống phong phú hơn thì sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn, cứ nghĩ rằng họ sẽ có nghị lực để vượt qua bất cứ điều gì trong cuộc sống. Không hẳn thể, vì thực sự cuộc sống này có nhiều tình huống khác nhau, và mỗi người tùy thuộc vào hoàn cảnh của mình để đưa ra những lựa chọn đúng đắn nhất. Vượt qua ngọn núi này sẽ có ngọn núi kế tiếp, có thể sẽ cao hơn. Điều đó buộc bạn phải lựa chọn: hoặc là cố gắng hết mình để vươn lên, hoặc là buông xuôi khi cảm nhận là mình không thể.
Theo cách lý giải của xã hội học về vấn đề hành động xã hội là phản ứng với xung quanh thì cuộc sống của chúng ta giống như một vở kịch. Chúng ta hành động mà quan tâm đến cảm giác và phản ứng của người khác nhiều hơn là của chính bản thân mình. Chúng ta cười cười nói nói suốt ngày, nhưng cũng chẳng biết chúng ta thật lòng khoảng bao nhiêu phần trăm. Chúng ta đau khổ, buồn chán nhưng phản ứng trước người khác thông thường là ngược lại. Điều đó vô tình khiến chúng ta trở thành diễn viên đang che đậy hầu hết những thứ có liên quan đến cuộc sống của mình. Chúng ta trở nên lặng lẽ khi ở một mình, đăm chiêu suy nghĩ về những thứ rất gần, rồi xa dần; những thứ nhỏ bé, rồi lớn lao,… Lật lại kí ức, nghi ngờ tương lai là bản tình mà con người không bao giờ có thể thay đổi được. Điều này giải thích được vì sao nhưng người nghĩ quá nhiều ít khi có được cuộc sống hạnh phúc. Có lẽ… một người có trí nhớ tốt cộng với cuộc sống nội tâm sâu sắc thì thông thường sẽ nhận được…đau khổ.
Những ngày vui, có những giờ phút thoải mái, chúng ta ăn ngon hơn, ngủ nhiều hơn. Nhưng đôi khi chỉ vì một chuyện không đâu, xảy ra từ rất lâu mà khiến cho chúng ta cứ phải nghĩ miết. Và kết cục cũng chỉ là những đêm thao thức vì không thể ngủ.
Có lẽ, chúng ta nên bớt đi những suy nghĩ làm cho chúng ta mệt mỏi. Những gì xảy ra bên ngoài cuộc sống mà bộ óc của chúng ta cứ suy nghĩ thì hãy tìm cách loại bỏ ngay. Nhưng điều đó chắc chắn là không dễ dàng một chút nào. Chính vì vậy, chúng ta cần phải cố gắng tập luyện, và chúng ta sẽ cảm nhận được sự thay đổi đó. Hãy mang những ưu tư vào nơi sâu thẳm của tâm hồn và cố gắng làm cho nhưng niềm vui có được ngày càng trọn vẹn hơn.
Con đường phí trước thật xa và dài, chúng ta sẽ không thể bước tiếp nếu những nỗi buốn còn chồng chất trên vai. Cả một chân trời mới, chân trời đầy tình yêu và hạnh phúc đang chờ bạn ở phía trước, nơi đó cần một con người mới – mạnh mẽ hơn.

Thứ Năm, 1 tháng 9, 2011

Kỷ niệm đầu tiên – Bài thơ “Những phút xao lòng”

Bước vào môi trường đại học, bạn sẽ thấy có rất nhiều thứ sẽ thay đổi. Và đương nhiên, bạn sẽ có những kỷ niệm mà không bao giờ quên, nó sẽ trở thành hành trang đi bên bạn đến suốt cuộc đời. Mỗi người có một điều ấn tượng riêng vì không ai giống ai cả, bất chợt một điều gì đó thoáng qua cũng làm cho ai đó phải suy tư. Có một điều chắc chắn là cái điều gây ra ấn tượng và dần dần in sâu thành kỷ niệm ấy, phải có cái gì đó gần gũi, thân thuộc với những người ghi nhớ chúng.

Riêng với tôi, một người đã từng nhiều năm đi làm, không còn sự hồn nhiên của cái tuổi học trò nữa. Kí ức phai nhạt, dấu ấn công việc hằn sâu, đó là những gì mà tôi có. Thế nhưng, những hồi ức bất chợt trở về ngay trong buổi gặp gỡ đầu tiên với cô giáo chủ nhiệm. Thực sự thì buổi ra mắt lớp của cô cũng chẳng có điều gì phải đặc biệt, giống như tất cả những buổi đầu tiên cô trò gặp mặt và làm quen. Thế nhưng, rồi cũng có một điều đã biến buổi gặp gỡ ấy thành một kỷ niệm không bao giờ quên trong tâm trí tôi. Đó là khi cô đọc cho lớp nghe bài thơ có cái tựa đề thật hấp dẫn : “Những phút xao lòng”. Bài thơ viết về những giây phút “ngoài chồng ngoài vợ” trong cuộc sồng hôn nhân mà tôi lại là một chàng trai trẻ, vậy mà chẳng hiểu vì sao tôi tâm đắc đến thế. Để rồi ngay sau đó, tôi đã tìm và học thuộc bài thơ ấy. Đó là bài thơ đầu tiên tôi có khi bắt đầu là một sinh viên.
Không ít người thuộc bài thơ này. Tuy nhiên, đối với tôi đó là một dấu ấn rất sâu sắc. Tôi xin trích dẫn bài thơ ấy để bạn đọc cùng nhau thưởng thức.
NHỮNG PHÚT XAO LÒNG
Có thể vợ mình xưa cũng có một người yêu
Người ấy gọi vợ mình là người yêu cũ
Cũng như mình thôi, ngày xưa mình cũng thế
Yêu một cô, giờ cô ấy đã lấy chồng.
Có thể vợ mình vì những phút mềm lòng
Nên giấu những suy tư, không kể vể giấc mộng
Người yêu cũ vợ mình có những điều mình không có được
Cô ấy không nói ra vì sợ mình buồn.
Mình cũng có những phút giây cảm thây xao lòng
Khi gặp người yêu xưa với những điều vợ mình không có được
Nghĩ về cái đã qua nhiều khi hối tiếc
Mình cũng chẳng nói ra vì sợ vợ buồn.
Sau những lần nghĩ đâu đâu mình thấy thương vợ mình hơn
Và cảm thấy mình như người có lỗi
Chắc vợ mình hiểu những điều mình không nói
Cô ấy cũng thương yêu và chăm chút mình hơn.
Mà có ai trách chi những phút xao lòng
Ai cũng có một thời để yêu và một thời để nhớ
Ai cũng có những phút giây ngoài chồng ngoài vợ
Đừng có trách chi những phút xao lòng.
THUẬN HỮU
(Trích trong tập thơ “Biển gọi”, NXB Đà Nẵng – 2000)

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2011

Cuộc sống là những va đập


Hãy nghe một viên sỏi kể về nguồn gốc của mình: “Tôi vốn là một tảng đá khổng lồ trên đỉnh núi cao. Trải qua bao tháng năm dài đằng đẳng bị mặt trời nung đốt, người tôi đầy vết nứt. Tôi vỡ ra và lăn xuống núi, mưa bão và nước lũ cuốn tôi vào sông suối.
Do liên tục bị va đập, lăn lộn, tôi bị tổn thương đầy mình. Nhưng cũng chính dòng suối lại làm lành những vết thương của tôi. Và tôi trở thành hòn đá láng mịn như bây giờ.
Bạn nghĩ gì khi nghe câu chuyện ấy? cảm thấy thú vị vì chuyến đi của hòn sỏi hay ánh mắt lạc quan của nó trước cuộc đời đầy biến động? đã bao giờ bạn tự nghĩ rằng chính cuộc đời đầy biến động và chông gai kia mới là kẻ tạo nên những hình hài đẹp và ấn tượng, dù chỉ là hình hài được tạo bởi chính những vết thương và sự đớn đau.
Có thể bạn, có thể là tôi, cuộc sống chẳng bao giờ chỉ mang đến nỗi đau, cũng chẳng bao giờ chỉ mang đến nỗi đau và niềm hạnh phúc. Vượt qua những đau khổ, vượt lên thử thách, vượt qua những nỗi đau chính là việc bạn đã tự khẳng định và hoàn thiện chân dung của mình. Cuộc sống này có vô vàn những biến động. Vì vậy, cho dù trong khó khăn hay hạnh phúc, cũng mong bạn luôn nhớ đến hành trình của hòn sỏi để sống tự tin hơn, mang những yêu thương xoa dịu và làm lành những vết thương. Bởi vì, những va đập của cuộc sống này thực sự không đáng sợ đâu bạn ạ!

NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

(1822 – 1888)

I. GIỚI THIỆU VỀ CUỘC ÐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
1. Cuộc đời:
Nguyễn Ðình Chiểu là người mở đầu cho giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ XIX, tên tuổi ông là tượng trưng cho lòng yêu nước của nhân dân miền Nam, và thơ văn ông là những trang bất hủ ca ngợi cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta chống bọn xâm lược phương Tây ngay buổi đầu chúng đặt chân lên đất nước ta.
Nguyễn Ðình Chiểu sinh ngày 1-7-1822 tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương phủ Tân Bình, Gia Ðịnh và mất ngày 3-7-1888 tại Ba Tri, Bến Tre.
Cuộc đời Nguyễn Ðình Chiểu sớm trải qua những chuỗi ngày gia biến và quốc biến hải hùng đã tác động đến nhận thức của ông.
Ngay từ nhỏ, Nguyễn Ðình Chiểu đã theo cha chạy giặc. Từ một cậu ấm con quan, bỗng chốc trở thành một đứa trẻ thường dân sống trong cảnh chạy loạn, trả thù, chém giết. Lớn lên, bị bệnh mù mắt, bị gia đình giàu có bội ước, công danh dang dở. Mặc dù cuộc đời Nguyễn Ðình Chiểu gặp nhiều bất hạnh nhưng lúc nào ông cũng gắn bó với nhân dân. Tuy sống trong cảnh mù lòa nhưng Nguyễn Ðình Chiểu đã tiến thân thành danh bằng con đường hành đạo của mình. Ông đã mở lớp dạy học, viết văn và hốt thuốc chữa bệnh cho dân. Lúc nào ông cũng quan tâm lo lắng cho chiến sự. Ở đâu ông cũng làm cùng một lúc ba nhiệm vụ của ba người tri thức để cứu dân, giúp đời.
Nguyễn Ðình Chiểu có nhiều nghị lực và phẩm chất, phải có nghị lực phi thường và khí phách cứng cỏi thì Nguyễn Ðình Chiểu mới vượt qua những bất hạnh của cá nhân và thời cuộc để đứng vững trước cơn binh lửa hãi hùng của lịch sử mà không sờn lòng, nản chí. Nguyễn Ðình Chiểu là hiện thân của nhiều phẩm chất cao đẹp làm người. Trong ứng xử cà nhân, Ðồ Chiểu là tấm gương sáng về đạo hiếu nghĩa nhân từ. Tất cả cô đúc lại thành khí tiết của nhà nho yêu nước Việt Nam tiêu biểu cho giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.
2. Sự nghiệp văn chương:
2.1. Quá trình sáng tác:
Văn chương chưa phải là toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Ðùnh Chiểu. Sự nghiệp của ông còn lớn hơn nhiều. Ông không chỉ là nhà văn mà còn là nhà giáo, người thầy thuốc và là một nhà tư tưởng. Nhưng văn chương của ông đồ sộ đủ đứng thành sự nghiệp riêng.
Nguyễn Ðình Chiểu bắt đầu viết văn sau khi mù, hầu hết các tác phẩm đều viết bằng chữ Nôm. Căn cứ vào nội dung có thể chia ra thành hai thời kỳ sáng tác:
-Trước khi Pháp xâm lược Nam Kỳ: Lục Vân Tiên là tác phẩm đầu tay, có tính chất tự truyện.
- Pháp xâm lược Nam Kỳ :
+ Tác phẩm Dương Từ-Hà Mậu có ý kiến cho rằng tác phẩm được viết trước khi Pháp xâm lược cũng có ý kiến ngược lại, mục đích của tác giả là dạy đạo Khổng cho học trò và sau này được sửa lại cho phù hợp với tình hình.
+ Tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp chủ yếu nói về các phương thuốc và nghề làm thuốc nhưng tràn đầy tinh thần yêu nước.
+ Các bài thơ Ðường luật, các bài hịch, văn tế… tiêu biểu Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc(1861), Mười hai bài thơ và bài văn tế Trương Ðịnh(1864), Mười bài thơ điếu Phan Tòng(1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh(1874), Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây, Hịch đánh chuột chưa xác định thời điểm sáng tác.
Với những tác phẩm nổi tiếng của mình, Nguyễn Ðình Chiểu trở thành người có uy tín lớn. Bọn thực dân nhiều lần tìm cách mua chuộc ông nhưng ông vẫn một mực từ chối các ân tứ. (Có nhiều giai đoạn về thái độ bất hợp tác của Nguyễn Ðình Chiểu với kẻ thù).
Cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà thơ mù Nam Bộ là một bài học lớn về lòng yêu nước, về việc sử dụng ngòi bút như một vũ khí đấu tranh sắc bén. Tấm gương Nguyễn Ðình Chiểu theo thời gian vẫn không mờ đi chút nào.
2.2. Quan điểm văn chương:
Nguyễn Ðình Chiểu tuy không nghị luận về văn chương nhưng ông có quan điểm văn chương riêng. Quan điểm văn dĩ tải đạo của ông khác với quan niệm của nhà nho, càng khác với quan niệm chính thống lúc bấy giờ. Nhà nho quan niệm Ðạo là đạo của trời, còn Ðồ Chiểu cũng nghĩ đến nhưng có khác:
Ðạo trời nào phải ở đâu xa
Gẫm ở lòng người mới thấy ra
Trên nguyên tắc đạo trời được đề cao nhưng trong thực tế đạo làm người đáng quý hơn nhiều. Ðó là quan niệm bao trùm văn chương Ðồ Chiểu.
Quan điểm văn chương Ðồ Chiểu tuy không được tuyên ngôn nhưng đây là quan điểm tiến bộ và gần gũi với văn chương dân tộc: Văn chương chiến đấu, vị nhân sinh, đầy tinh thần tiến công và tinh thần nhân ái.
II. NỘI DUNG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN ÐÌNH CHIỂU
1. Tác phẩm Luc Vân Tiên:
1.1. Tóm tắt cốt truyện:
Ðây là câu truyện thơ lục bát dài 2082 câu. Cốt truyện được tóm tắt như sau:
- Lục Vân tiên gặp Kiều Nguyệt Nga (Câu 1-186)
- Lục Vân Tiên bị tai nạn dồn dập và được cứu giúp (Câu 187-1264)
- Kiều Nguyệt Nga bị cống Phiên (Câu 1265-1664)
- Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga nên nghĩa vợ chồng (câu 1665-2082)
1.2. Lục Vân Tiên thể hiện Ðạo làm người trong cuộc đời thường:
a. Ðạo đức nhân nghĩa trong tác phẩm Lục Vân Tiên.
Khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Ðình Chiểu bắt nguồn từ tư tưởng nhân nghĩa của nho giáo và trong thâm tâm, ông từng khẳng định và ca ngợi đạo nho Theo đường nhân nghĩa chi bằng đạo nho.
Viết tác phẩm Lục Vân Tiên, tác giả có nêu lên những tấm gương về luân lý, đạo đức kiểu Nhị thập tứ hiếu nhằm mục đích giáo huấn, cải tạo xã hội:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
Quan niệm này xuất hiện rải rác trong toàn bộ tác phẩm thông qua hành động và tính cách các nhân vật (Vân Tiên, Nguyệt Nga, Tiểu Ðồng…) dễ làm ta nghĩ đến những quan niệm phong kiến Nam nữ thụ thụ bất thân, về lòng trung thành, về chữ trung, chữ tiết phong kiến.
Nhưng trong khi thực hiện đạo đức nhân nghĩa, Nguyễn Ðình Chiểu đã nhào nặn lại tư tưởng của đạo nho, đã tiếp thu một cách sáng tạo phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Trong tác phẩm có đặt ra vấn đề trung, hiếu, tiết, nghĩa nhưng không còn theo lý thuyết nho giáo gò bó, áp đặt, cứng nhắc, cực đoan theo kiểu phong kiến mà được khúc xạ đến mức khó nhận ra.
b. Các nhân vật không thấy mình bị gò bó bởi một nguyên lý đạo đức nào.
Vân Tiên nghe theo lệnh vua đi chống giặc Ô Qua là để cứu dân. Ðó là hành động trung quân hay ái quốc cũng được. Tư tưởng trung quân của Nguyễn Ðình Chiểu là trung quân có điều kiện, trung với lẽ phải, trung với nước. Nhưng đối với những ông vua xấu, vua ác thì ông phê phán:
Quán rằng: ghét việc tầm phào
Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm.
Ðể dân đến nỗi sa hầm sẩy hang
Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời Thúc quý phân băng,
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng hại dân…
c. Hành động tự trầm của Nguyệt Nga cũng là thái độ phản kháng đối với chữ trung.
Nghĩa tình nặng cả hai bên.
Lấy mình báo chúa, lấy lòng sự phu.
Nguyễn Ðình Chiểu là một nhà nho sống dưới thời nhà Nguyễn là thời kỳ nho giáo được đề cao. Nhưng có được một quan niệm đạo đức như thế rõ ràng là tiến bộ. Như vậy, tuy tác phẩm có đề cao trung, hiếu, tiết, hạnh nhưng không phải hoàn toàn thuộc quan niệm phong kiến mà có nhiều yếu tố nhân dân.
Ðứng trên lập trường nhân dân, ông ca ngợi những người hành động vì nhân nghĩa và họ xem đó là một nhu cầu mà không hề nghĩ đến lợi danh, không cần báo đáp.
- Ðó là những người rất hào hiệp, nghĩa khí Giữa đường thấy chuyện bất bằng chẳng tha Vân Tiên Tả xung hữu đột đánh cướp cứu Nguyệt Nga, Hớn Minh bẻ giò con quan tri huyện để cứu người bị ức hiếp thế cô.
- Họ còn là những người tốt, giàu lòng thương người, sẵn sàng giúp đỡ người khác không nghĩ đến thân, quên mình vì nghĩa. Ông Ngư hết lòng chăm sóc cho Vân Tiên trong lúc hoạn nạn:
Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
Ngư rằng: lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn
Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu nhân nghĩa chi sờn lòng đây.
Tất cả việc làm vì nghĩa của các nhân vật chính diện trong tác phẩm Lục Vân Tiên đều thể hiện được một quan điểm nhất quán của Ðồ Chiểu về cuộc sống, cũng như về đạo đức.
Ðể khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, một mặt, ông ca ngợi cái chính nghĩa mặt khác ông phê phán cái phi nghĩa. Các nhân vật trong tác phẩm được sắp xếp thành hai tuyến nhân vật rất rõ. Một bên là những con người chính nghĩa và bên kia là những kẻ bất nhân bất nghĩa như gia đình họ Võ ăn ở hai lòng, như Trịnh Hâm tính tình đố kỵ nhỏ nhen; như Bùi Kiệm dâm ô, dốt nát và hàng loạt những tên lang băm, phù phép, bối toán nhiễu đời, hại dân cùng với những tên sâu dân mọt nước như tên Vua Sở, tên Thái Sư trong truyện. Tất cả những nhân vật phản diện này đều tiêu biểu cho cái xấu, cái ác nên cuối cùng đều bị trừng trị thích đáng.
Cách xử lý của tác giả rất gần với quan niệm của nhân dân Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo. Ðó cũng chính là đạo lý, là ước mơ của nhân dân.
2. Lục Vân Tiên thể hiện bản chất đạo lý nhân dân:
Vấn đề đạo lý còn được thể hiện qua các quan hệ khác trong tác phẩm: Cha con, chồng vợ, thầy trò, bạn bè… Nguyễn Ðình Chiểu đã đặt ra những tình huống xử thế trong các mối quan hệ đời thường, gia đình và xã hội. Nó rất gần gũi và cần thiết với cuộc sống hàng ngày và bao trùm hơn cả là mối quan hệ giữa con người với con người.
Mối tình Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga được vun đắp từ vấn đề ân nghĩa. Khi nghe tin Vân Tiên mất, nàng kiên quyết thủ tiết thờ chồng. Nỗi đau buồn của nàng khi được lệnh cống Ô Qua: Trong dạ như bào, canh chày chẳng ngủ, những thao thức hoài… và lấy cái chết để giữ tình phu phụ. Vân Tiên cảm phục tấm lòng sắt son chung thủy của người yêu nên đã không ngần ngại ‘Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn’. Vân Tiên đã làm một việc mà đạo đức phong kiến không cho phép. Cũng giống như Nguyệt Nga, nàng đã vượt qua lễ giáo phong kiến tự ý đính ước với Vân Tiên.
Các nhân vật chính diện trong tác phẩm sống rất hồn nhiên, cởi mở. Họ sống có tình, có nghĩa, giản dị, chân chất. Tình thầy trò giữa Tôn Sư và Vân Tiên, tình cảm bạn bè giữa Vân Tiên, Tử Trực, Hớn Minh; Tình nghĩa chủ tớ giữa Vân Tiên với Tiểu Ðồng; giữa Nguyệt Nga và Kim Liên được miêu tả giống với cuộc sống và quan niệm của nhân dân. Ðoạn Vân Tiên bày tiệc tế Tiểu Ðồng rất cảm động, nhưng Tiểu Ðồng còn sống, gặp lại nhau tớ thầy vui mừng không xiết:
Trạng nguyên khi ấy mừng vui
Tớ thầy sum hiệp tại nơi Ðại đề
Ðoạn thôi xe trở ra về…
Vân Tiên cùng các bạn là Hớn Minh, Tử Trực vẫn thân thiết như ngày trước:
Hai người gặp lại hai người
Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng.
Bản chất nhân dân còn thể hiện qua đặc điểm tính cách của nhân vật. Quan điểm thương ghét của Ông Quán rất rõ ràng, dứt khoát tiêu biểu cho tính cách của người dân Nam bộ, quan điểm này cũng xuất phát từ tấm lòng thương yêu trìu mến “Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương”. Hớn Minh là người nghĩa khí, hành động bẻ giò con quan tri huyện ỷ thế giàu sang làm càng là tiêu biểu cho hào khí của người dân lục tỉnh. Cũng như Tử Trực được miêu tả là một người trực tính, không màng danh lợi, sống có tình có nghĩa, rất mực yêu quý bạn, nghe tin Vân Tiên mất chàng than khóc:
Nghe qua Tử Trực chạnh lòng
Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.
Nhưng tiêu biểu nhất là nhân vật Lục Vân Tiên, chàng là mẫu ngưỡi lý tưởng nên hội đủ các điều kiện mà nhân dân mơ ước: trọng nghĩa khinh tài, phò đời giúp nước, đối nhân xử thế đều theo quan điểm nhân dân.
1.3. Lục Vân Tiên từ dáng dấp một tự truyện, một giấc mơ đến lý tưởng xã hội:
a. Từ dáng dấp một tự truyện, một giấc mơ:
Lục Vân Tiên là một câu chuyện mang tính chất tự truyện. Tính chất tự truyện thể hiện qua những chi tiết có tính chất bề nổi và bề sâu của tác phẩm. Chính nội dung tự thuật này đã bao quát toàn bộ cốt truyện và thể hiện suốt chiều dài tác phẩm.
Lục Vân Tiên thể hiện giấc mơ Ðồ Chiểu. Người thanh niên bị phụ tình đã ước mơ một mối tình chung thủy. Chàng ước mơ những cử chỉ anh hùng, mơ ước trả nợ nước non và tâm sự ấy chàng đã gửi vào Tử Trực, vào Hớn Minh, nhất là vào Vân Tiên. Vân Tiên cũng bị mù nhưng sẽ có thuốc tiên chữa cho sáng mắt ra. Vân Tiên sẽ thực hiện cái chí bình sanh của Nguyễn Ðình Chiểu.
Ngoài giấc mơ riêng tư còn là giấc mơ chung về cuộc đời rộng lớn mà tự nó đã thể hiện ý nghĩa xã hội sâu sắc.
b. Ðến một lý tưởng xã hội:
- Lục Vân Tiên là cả một xã hội, tất nhiên là xã hội phong kiến với đầy đủ các hạng người: Vua quan, thứ dân, đứa ở, kẻ sĩ… Một xã hội với đầy đủ những người tốt, kẻ xấu. Nguyễn Ðình Chiểu đã dựng ra cả một cuộc đời để gửi gấm lý tưởng xã hội của mình.
- Nhà thơ đã xây dựng những mẫu người lý tưởng, qua những nhân vật lý tưởng, ông muốn xây dựng một xã hội lý tưởng. Ở đó, cái tốt đẹp được coi trọng và ngưỡng mộ, người tài đức được trọng dụng, các oan khuất được giải minh. Tóm lại, đó là xứ sở của điều thiện, lẽ sống công bằng và lòng nhân ái.
- Bên cạnh đó, nhà thơ phê phán những bất nhân, bất nghĩa. Qua diễn tiến và kết cục của số phận nhân vật phản diện trong tác phẩm, Nguyễn Ðình Chiểu muốn nói lên rằng muốn xây dựng một xã hội lý tưởng phải tiêu diệt những hạng người xấu xa, độc ác.
Cách xử lý này tuy có phần ảo tưởng và thỏa hiệp nhưng có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nó thể hiện sự cao thượng và càng làm cho tính cách của nhân vật chính diện càng lý tưởng hơn, thể hiện được tư tưởng lạc quan của nhân dân: Cái ác, cái xấu dẫu được người tha, thì vẫn là Trời không dung, đất không tha.
- Tác phẩm có xây dựng các yếu tố thần kỳ: Giao long, phật bà, du thần, hai đạo bùa… Các yếu tố thần kỳ này đã được sự tiếp tay, tiếp sức cho chính nghĩa, thể hiện khát khao công lý và nhân ái của nhân dân.
1.4. Vài đặc điểm về nghệ thuật:
a. Kết cấu:
Kết cấu không khác mấy so với truyện thơ Nôm giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII-nửa đầu thế kỷ XIX, là vẫn xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập nhau nhưng trong Lục Vân Tiên sự đối lập được thể hiện trong từng cặp nhân vật một: Hớn Minh >< Trịnh Hâm; Tử Trực >< Bùi Kiệm; Kiều Nguyệt Nga >< Võ Thể Loan> xây dựng kiểu kết cấu này giúp tác giả trực tiếp bày tỏ quan điểm của mình.
b. Sự chuyển ý:
Lục Vân Tiên là một tác phẩm được sáng tác để kể hơn là để xem nên cách chuyển ý rất đơn giản và thoải mái. Từng chương, mục trong tác phẩm không đòi hỏi sự liền mạch và nhất quán vì ở mỗi chương, mục là một nội dung, là một câu chuyện riêng. Ta vẫn có có thể đọc từng hồi, từng thứ, từng đoạn nhưng vẫn hiểu mục đích và nội dung của tác phẩm. Chẳng hạn như đoạn thương ghét của ông Quán, sự triết lý của ông Quán, ông Ngư, ông Tiều về sự đời, hay những đoạn chế giễu sự khoác lác, bịp bợm của bọn lang băm, thầy bói, thầy pháp… đều gây ấn tượng mạnh mẽ:
Pháp rằng: án đã cao tay
Lại thêm phù chú xưa nay ai bì
Qua sông cá thấy xếp vi
Vào rừng cọp thấy phải quỳ lại thưa…
Cuối cùng cũng lộ rõ mục đích thực dụng của chúng:
Có ba lạng bạc trao sang
Thì Thầy sắm sửa lập đàn chạy cho.
c. Ngôn ngữ:
Tác phẩm này được sáng tác trong hoàn cảnh mù lòa nên nhiều chỗ còn thô vụng. Tuy nhiên ngôn ngữ trong Lục Vân Tiên phục vụ đắc lực cho việc kể. Phần nhiều là những lời thơ nôm na, mộc mạc, chất phác, dễ nhớ, dễ truyền miệng trong dân gian.
d. Sử dụng thành ngữ, ca dao:
Thành ngữ, ca dao đã tham gia hình thành Lục Vân Tiên khá độc đáo. Thí dụ như đoạn đối đáp của ông quán với Trịnh Hâm…
e. Ðiển cố:
Ðiển cố được lấy từ tích các truyện Tàu, là những điển tích quen thuộc với nhân dân. Ví dụ như đoạn Tử Trực mắng cha con Võ Thể Loan; đoạn thương ghét của ông Quán…
f. Xây dựng tính cách nhân vật:
Trong tác phẩm Lục Vân Tiên có đoạn nhà thơ đặt chân vào hoàn cảnh có kịch tính, có nhiều chỗ nhân vật cần bộc lộ tâm trạng nhưng nhà thơ chưa thể hiện hết tâm trạng đó. Vì vậy, tâm lý nhân vật còn nhiều khô khan, gò bó, gượng gạo. Ðoạn Lục Vân Tiên cứu Nguyệt Nga, đoạn sum họp.
Lục Vân Tiên là tác phẩm cuối cùng kết thúc một giai đoạn văn học. Tác phẩm đã kế thừa nhiều mặt truyền thống củ văn học nhân gian, của truyện thơ Nôm bình dân, đã thể hiện trữ tình đạo đức và tính nhân dân sâu sắc.
VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC
A – NGUYÊN VĂN
1. Hỡi ơi! Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.
2. Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.
3. Nhớ linh xưa: Cui cút làm ăn; Toan lo nghèo khó.
4. Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ. Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
5. Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa; Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.
6. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
7. Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.
8. Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
9. Khá thương thay: Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
10. Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.
11. Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi; Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
12. Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
13. Chi nhọc quan quản trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
14. Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
15. Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; Đâu biết xác phàm vội bỏ.
16. Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
17. Đoái sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.
18. Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm; Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
19. Nhưng nghĩ rằng: Tấc đấc ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
20. Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; Vì ai xui hào lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
21. Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
22. Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
23. Ôi thôi thôi! Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
24. Đau đớn bấy! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; Não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
25. Ôi! Một trận khói tan; Nghìn năm tiết rỡ.
26. Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen; Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
27. Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
28. Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
29. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.
30. Hỡi ơi! Có linh xin hưởng.
B – TÌM HIỂU TÁC PHẨM
I. Giới thiệu chung
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Viết trong buổi nhân dân tổ chức truy điệu các nông dân nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tấn công đồn Cần Giuộc ngày 16 – 12 – 1861.
- Tác phẩm ra đời vào cuối 1861, đầu 1862. Đây là thời điểm cả nước, đặc biệt là nhân dân miền Nam đang sôi sục đứng lên chống lại thực dân Pháp. Ngày 16 – 12 – 1861 xảy ra một trận đánh đồn Cần Giuộc, nhiều nghĩa sĩ nông dân đã tập kích, phá đồn, tiêu diệt được nhiều giặc Pháp và tay sai, trong trận này, nghĩa binh chết gần 20 người. Cảm kích trước lòng dũng cảm của nghĩa sĩ, tuần phủ Gia Định giao cho c Đ Chiu viết bài văn tế đọc tại buổi lễ truy điệu các nghĩa sĩ.
Bài văn tế đã khích lệ tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc và ý chí chiến đấu và bảo vệ tổ quốc…
2. Thể loại: Văn tế.
- Ở Sách giáo khoa thí điểm môn Ngữ Văn 10, Bộ 2, Ban KHXH, các tác giả cho biết khái niệm văn tế như sau: 
Văn tế là một loại văn gắn với phong tục tang lễ, nhằm bày tỏ lòng tiếc thương của tác giả và người thân đối với người đã mất. Văn tế thường có hai nội dung cơ bản: tái hiện cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã khuất và bày tỏ nỗi đau thương của người sống trong giờ phút vĩnh biệt. Âm hưởng chung của bài văn tế là bi thương, nhưng sắc thái biểu cảm của mỗi bài có thể khác nhau.
- Ở Sách giáo khoa thí điểm môn Ngữ Văn 10, Bộ 1, Ban KHXH, viết:
Thời xưa, trong thủ tục tế lễ trời đất núi sông thường có bài văn cầu chúc. Loại văn đó có tên gọi là tế văn, kỳ văn hoặc chúc văn. Về sau, khi chôn cất người thân, người ta cũng dùng văn tế dể tưởng nhớ người đã mất. Ngày nay, người ta gọi văn tế là điếu văn.
Văn tế nói chung là loại văn đọc khi tế cúng người chết; bởi vậy nói có hình thức tế - hưởng. Chẳng hạn: mở đầu bằng năm, tháng, ngày, kính mời vong linh người nào đó; kết thúc bằng ô hô, ai tai (Hỡi ơi! Đau đớn thay!) Về hình thức viết văn tế người ta có thể dùng văn vần, tản văn, biền văn.
Một bài văn tế thường có các phần: lung khởi (cảm tưởng khái quát về người chết); thích thực (hồi tưởng công đức của người chết); ai vãn (than tiếc người chết); kết (nêu lên ý nghĩ và lời mời của người đứng tế đối với linh hồn người chết).   
- Khái niệm thể loại theo Từ điển thuật ngữ văn học:
Một loại văn gắn với phong tục tang lễ chủ yếu nhằm bày tỏ sự thương tiếc của tác giả và của những người thân đối với người đã mất. Nội dung văn tế thường xoay quanh hai ý chính: một là kể về cuộc đời người quá cố; hai là bộc lộ tình cảm, thái độ của người sống trong giờ phút vĩnh biệt. Mặc dù trong văn tế có những đoạn tự sự kể lại cuộc đời của người quá cố, nhưng căn bản nó vẫn thuộc loại trữ tình. Âm điệu chung của nó là bi thương.
3. Bố cục: 4 đoạn
a. Lung khởi ( câu 1-2): Khái quát bối cảnh bão táp của thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết bất tử của người nông dân-nghĩa sĩ
b. Thích thực ( từ câu 3 – 15 ): Tái hiện chân thực hình ảnh người nông dân – nghĩa sĩ, từ cuộc đời lao động vất vả, tủi cực đến giây phút vươn mình trở thành dũng sĩ đánh giặc và lập chiến công.
c. Ai vãn ( 16 – 28 ): Bày tỏ lòng tiếc thương, sự cảm phục của tác giả và nhân dân đối với người nghĩa sĩ.
d. Kết ( 2 câu cuối ): Ca ngợi linh hồn bất tử của các nghĩa sĩ.
II. Phân tích 
a. Hình ảnh người nghĩa sĩ 
* Nguồn gốc: Nông dân nghèo khổ “cui cút làm ăn”, cần cù lao động “chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ”. Chất phác hiền lành:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; 
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó: 
* Tâm hồn : Yêu, ghét dứt khoát, rõ ràng: “ghét thói mọi như nhà ông ghét cỏ” “đâu dung lũ treo dê bán chó”. Căm thù quyết không đội trời chung với giặc Pháp:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan, 
Ngày xem ống khói chạy đen sĩ, muốn ra cắt cổ”
Yêu nước, yêu xóm làng quê hương, tự nguyện đứng lên đánh giặc: “Mến nghĩa làm quân chiêu mộ”, “phen này xin ra sức đoạn kình”, “chuyến này dốc ra tay bộ hổ” 
* Trang bị 
- Không phải là lính chính quy của Triều đình, “chẳng phải quân cơ, quân vệ”, chẳng có “bao tấu, bầu ngòi”. Họ chỉ là “dân ấp dân lân”, vì “bát cơm manh áo” mà đánh giặc. Trang bị thô sơ, áo mặt chỉ là “một manh áo vải”, vũ khí là một ngọn tầm vông, một lưỡi gao phay, hoặc “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”… 
Kẻ thù của họ là mã tà, ma ní, là thằng Tây “bắn đạn nhỏ đạn to”, có “tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”. 
* Chiến đấu dũng cảm và anh dũng hy sinh : 
- Dũng mãnh tiến công như vũ bão, “đạp rào lướt tới”, “kẻ đâm ngang, người chém ngược”, “bọn hè trước lũ ó sau”. 
- Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, lẫm liệt hiên ngang: “nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”, “trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”. 
- Chiến công oanh liệt: “đốt xong nhà dạy đạo kia”, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”, “làm cho mã tà, ma ní hồng kinh” 
- Hy sinh đột ngột trên chiến địa: “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ”. 
Tóm lại, Nguyn Đình Chiu đã ngợi ca, khâm phục và biết ơn các nghĩa sĩ. Ông đã dựng lên một tượng đài bi tráng về người nông dân đánh giặc cứu nước trong buổi đầu giặc Pháp xâm lăng đất nước ta.
b. Tình cảm đẹp, tư tưởng rất tiến bộ 
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” hàm chứa những tình cảm đẹp, tư tưởng rất tiến bộ của nhà thơ Nguyn Đình Chiu. 
- Ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần tự nguyện đánh giặc để cứu nước của các nghĩa sĩ. Khẳng định vị trí và vai trò của người nông dân trong lịch sử chống xâm lăng vì độc lập, tự do của Tổ quốc. 
- Tiếc thương những nghĩa sĩ đã anh dũng hy sinh (câu 18, 25) 
- Khẳng định một quan niệm về sống và chết: chết vinh còn hơn sống nhục. Không thể “theo quân tà đạo”, “ở lính mã tà” đánh thuê, làm bia đỡ đạn, sống cuộc đời bán nước cầu vinh “chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ”. Trái lại, phải sống anh dũng, chết vẻ vang: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”. 
- Tự hào về các nghĩa sĩ đã bỏ mình vì Tổ quốc. Tên tuổi họ, tinh thần họ bất tử: “danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen…”, “tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”, “cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm”… Tóm lại, lần đầu tiên trong nền văn học dân tộc, Nguyn Đình Chiu đã khắc hoạ và ca ngợi người nông dân Nam Bộ và những anh hùng thời đại đã sống, chiến đấu và hy sinh vì đại nghĩa. 
c. Nghệ thuật 
- Ngôn ngữ bình dị như cách nói, cách nghĩ và cách cảm của nhân dân miền nam. Các kiểu câu tứ tự, song quang, cách cú, gối hạc, câu nào cũng đặc sắc, khô ứng, đối chọi cân xứng đẹp. 
- Chất chữ tình kết hợp với chất anh hùng ca tạo nên màu sắc bi tráng. 
- Hình tượng người chiến sĩ nghĩa quân được khắc họa tuyệt đẹp trong tư thế lẫm liệt hiên ngang. 
Có thể nói, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một bài ca yêu nước chống xâm lăng, là kiệt tác trong kho tàng văn tế cổ kim của dân tộc. 






Đề bài:
Phân tích bài thơ "Chạy giặc" của Nguyễn Đình Chiểu
Đánh giá giá trị các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu trong những năm thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ, có ý kiếng khẳng đinh: “Sáng tác của ông sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước…” Phân tích bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu để 1àm sáng tỏ ý kiến trên.
Bài làm
Nquyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ XIX. Mắt bị mù lòa giữa thời trai trẻ, con đường công danh sự nghiệp dở dang, nhưng ông đã không chịu khoanh tay trước những bất hạnh cay đắng. ông đã mở trường dạy học, làm thầy thuốc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, viết văn làm thơ, tiếng tăm lừng lẫy trở thành ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ Việt Nam cuối thế ki XIX. Tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với những truyện thơ đậm đà màu sắc cổ điển như Truyện Lục Vân Tiên, truyện Ngư Tiều y thuật vấn đáp... Đỉnh cao về tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu là những bài văn tế, những bài thơ yêu nước như Chạy giặc Xúc cảnh, Văn tế Trương Công Định, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc... Đánh giá giá trị các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu trong những năm thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ, có ý kiến khẳng định: "Sáng tác của ông sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước".
Nếu Truyện Lục Vân Tiên, Ngư Tiểu y thuật vấn đáp sáng ngời tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp thì những bài văn tế, những bài thơ như Chạy giặc đã làm sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước. Thơ, văn tế của Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi những người anh hùng suất đời tận trung với nước và than khóc những người liệt sĩ đã trọn nghĩa với dân. Ngòi bút, nghĩa là tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu, đã "diễn tả thật sinh động những tình cảm của dân tộc đối với người chiến sĩ của nghĩa quân vốn là nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc,bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước" (Phạm Văn Đồng).Khi Tổ quốc bị xâm lăng súng giặc đất rền, những người áo vải chân đất dân ấp dân lân đã quật khởi đứng lên đánh giặc với chí căm thù sôi sục:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ.”
Họ đánh giặc là để bảo vệ tấc đất ngọn rau, để giữ lấy bát cơm manh áo ở đời. Vì thế, chỉ một lưỡi dao phay, một gậy tầm vông cũng ào ào xưng trận. Tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang lẫm liệt:
“Hỏa mai đánh bàng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia
Gươm đeo dùng bằng lưỡi 1 dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.”
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Đất nước quê hương bị giặc Pháp giày xéo, tuy bị mù lòa, ông vẫn dùng ngòi bút và tấm lòng yêu nước tham gia đánh giặc. ông gọi lòng trung nghĩa của mình là lòng đạo chung thuỷ, sắt son, sáng ngời:
“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gương.”
Có thể nói, những câu văn, vần thơ của Nguyễn Đình Chiểu chứa chan tinh thần yêu nước, đã làm sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước. Vì thế mà niềm mơ ước của ông vẫn là niềm mơ ước của hàng triệu con người Việt Nam trong thế kỉ qua về độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc và hòa bình:
“Chừng nào thánh dế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông.”
(Xúc cảnh)
Bài thơ Chạy giặc là một bài ca yêu nước chống xâm lăng. Năm 1859, thực dân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Đất nước rơi vào thám họa, Nguyễn Đình Chiểu viết bài thơ Chạy giặc bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật ghi lại sự kiện bi thảm này. Hai câu đề nói lên thời cuộc và thế nước. Giặc Pháp tấn công thành Gia Định vào lúc tan chợ:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.”
Cảnh họp chợ, cảnh tan chợ là nhịp sống yên bình của nhân dân ta. Tiếng súng Tây bất ngờ nổ rền trời đã làm cho nhịp sống ấy bị đảo lộn. Cảnh chiến tranh đã bắt đầu. Một bàn cờ thế là hình ảnh ẩn dụ nói về thời cuộc, về cuộc chiến giằng co, ác liệt. Ba tiếng phút sa tay trong câu thơ Một bàn cờ thế phút sa tay nói lên sự thất thủ nhanh chóng của quân triều đình tại thành Gia Định. Hai câu thơ đầu như một thông báo về sự kiện lịch sử bi thám diễn ra vào năm 1859. Đằng sau câu thơ là nỗi lo lắng và kinh hoàng của nhà thơ trước thám họa quê hương đất nước thân yêu của mình bị giặc Pháp chiếm đóng và giày xéo.
Hai câu trong phần thực đối nhau, phép đảo ngữ vận dụng sắc sảo: Vị ngữ bỏ nhà và mất ổ được đặt lên đầu câu thơ nhằm nhấn mạnh nỗi đau thương tang tóc của nhân dân ta khi giặc Pháp tràn tới: 
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ, đàn chim dáo dác bay.”
Nếu viết “Lũ trẻ bỏ nhà lơ xơ chạy” và “Đàn chim mất ổ dáo dác bay” thì ý vị câu thơ và giá trị biểu cảm sẽ không còn nữa! Cặp từ láy lơ xơ và dáo dác gợi tả sự hoảng loạn và kinh hoàng đến cực độ. Cảnh trẻ con lạc đàn, chim vỡ tổ là hai thi liệu chọn lọc điển hình theo cách nói của dân gian tả cảnh chạy giặc vô cùng thảm thương.
Hai câu luận, ý thơ được phát triển và mở rộng. Tác giả lên án tội ác của giặc Pháp càn quét, đốt nhà, giết người, cướp của, tàn phá quê hương. Phép đối và đảo ngữ được vận dụng sáng tạo. Nhà thơ không viết: ‘Của tiền Bến Nghé tan bọt nước’ và ‘Tranh ngói Đồng Nai nhuốm màu mây”, mà đã viết:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước.
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.”
Câu thơ đã vẽ lên một vùng địa lí ban la và trù phú (Bến Nghé, Đồng Nai) phút chốc biến thành đống tro tàn. Bến Nghé, Đồng Nai trong thế kỉ XIX vốn đã là vựa lúa và nơi buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền, thế mà chỉ trong khoảnh khắc đã bị giặc Pháp tàn phá tan hoang. Tiền của, tài sản của nhân dân ta bị giặc cướp phá sạch tan bọt nước. Nhà cửa xóm làng quê hương nhà thơ bị đốt cháy, lửa khói nghi ngút nhuốm màu mây. Hai hình ảnh so sánh tan bọt nước và nhuốm màu mây là cách nói cụ thể của dân gian đặc tả cánh điêu tàn do giặc Pháp gây ra.
Có thể nói hai cặp câu trong phần thực và phần luận là tiếng nói căm thù của nhà thơ lên án tội ác của giặc Pháp xâm lược. Người đọc cám nhận một cách sâu sắc bài thơ Chạy giặc đã làm sống dậy và hướng tới chúng ta như một bài ca yêu nước. Các nhà thơ Việt Nam sau này đã học tập và kế thừa Nguyễn Đình Chiểu để viết nên những vần thơ căm giận quân xâm lược:
“Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới,
Ngõ chùa chạy đỏ những thân cau.”
(Núi đôi - Vũ Cao)
“Giặc về giặc chiếm đau xương máu,
Đau cả lòng sông, đau cỏ cây.”
(Quê mẹ - Tố Hữu)
Trong hơn một thế kĩ qua, có biết bao xương máu của nhân dân đã đổ xuống vì bom đạn lũ xâm lược. Cho nên tiếng nói căm thù là cảm xúc chủ đạo của các bài thơ yêu nước.
Trở lại hai câu kết trong bài Chạy giặc, ta xúc động trước câu hỏi của nhà thơ:
“Hôi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Trang dẹp loạn cũng là trang anh hùng hào kiệt. Rày đâu vắng. hôm nay, bữa nay đi đâu mà không thấy xuất hiện? Nhà thơ vừa trách móc quan quân triều đình hèn yếu, thất trận để giặc chiếm đóng quê hương, vừa mong đợi người anh hùng tài giỏi ra tay đánh giặc để cứu nước, cứu dân thoát khỏi cảnh lầm than. Câu kết chứa đựng biết ban tình yêu thương của Nguyễn Đình Chiểu đối với nhân dân đang quằn quại trong bom đạn giặc! Chạy giặc là bài ca yêu nước mở đầu cho thơ văn yêu nước của dân tộc ta từ cuối thế kỉ XIX.
Bài thơ Chạy giặc được viết bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân dã đậm đặc màu sắc Nam Bộ (lũ trẻ, lơ xơ, ổ, dáo dác, tan bọt nước, nhuốm màu mây, rày, nỡ, dân đen). Phép đối, phép đảo ngữ, ẩn dụ so sánh là những biện pháp nghệ thuật được tác giả vận dụng sáng tạo để viết nên những vần thơ hàm súc, biểu cảm. Chạy giặc là bài thơ mang giá trị lịch sử to lớn. Nó ghi lại sự kiện đau thương của đất nước ta cuối thế ki XIX. Nó là bài ca yêu nước căm thù giặc.
                                                                                                                
Đề bài:
Hình tượng người nông dân đánh giặc trong thơ Nguyễn Đình Chiểu
I. Mở bài:
Thế kỷ XIX là thời kì lịch sử “đau thương nhưng vĩ đại” của dân tộc ta. Ở thế kỷ ấy, có một nhà thơ mù nhưng trong lòng sáng như gương, người đã thấy kết những gì mà bao nhiêu người mắt sáng không nhận ra. Người đó là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Và, trong văn họ Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, chưa có một hình tượng nhân dân nào chân thực và cảm động hơn người nghĩa sĩ tử trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của ông.
II. Thân bài:
Nói đúng ra, trước Nguyễn Đình Chiểu, con người bình thường cũng xuất hiện trong văn chương Việt Nam. Tuy nhiên, đó hoặc là những ngư phủ, tiều phu hình bóng thấp thoáng, khi xa khi gần trong thơ bà Huyện Thanh Quan, hoặc là đám đông lố nhố, hằng ngày là cục đất củ khoai, khi có dịp trở nên những “kiêu binh” lỗ mãng trong “Hoàng Lê nhất thống chí’.
Ngưòi nông dân xuất hiện trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn khác hẳn. Họ thật sự là những người bình thường ,là “dân áp , dân lân” , “ngoài cật có một manh áo vải” .Bản tính lại hiền lành ,chất phác ,quanh năm duốt tháng “côi cút làm ăn ,toan lo nghèo khó” .Bên trong luỹ tre làng, họ “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”, thành thục với nghề nông trang: Việc cuốc cầy, việc bừa, việc cấy, tay vốn làm quen. Nói như nhà thơ Thanh Thảo sau này, họ lấm láp sình lầy ấy đã bước vào thơ Đồ Chiểu. Đành rằng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã có tấm lòng sáng để phát hiện ra họ, nhưng trước hết bởi dù không áo mão cân đai phẩm hàm văn võ / họ để lại những vệt bùn làm vinh dự cho thơ. Đó chính là tấm lòng yêu nước, trượng nghĩa của người nông dân .
Khi nghe tin quân giặc đến, dù là dân thường nhưng những người nông dân lòng đầy sốt ruột. Trong xã hội xưa, những chuyện quốc gia đại sự trước hết là việc của quan. Dân nghe theo quan mà làm dân. Dân nhìn thấy quan mà theo
à Vì thế ,họ trông chờ tin quan như trời hạn trông mưa. Mắt còn trông đợi nhưng lòng thì đã rõ:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Lòng yêu nước không độc quyền của ai. Huống chi, với những người nông dân chân chất, khi “mùi tinh chiến vấy vá đã ba năm” thì họ “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Vì thế ,dù là dân ấp, dân lân, trong tay chỉ còn một tầm vông, họ đã sẵn sàng xả thân vì nghĩa cả:
“Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”.
“Chi nhọc nhằn quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
“Kẻ đâm ngang, người chém ngựơc, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng đung nổ.”
Cuộc đối đầu một mất một còn giữa những người nông dân yêu nước với kẻ thù là cuộc đối đầu không cân sức. Họ thất thế ngay từ ban đầu khi tựgiác đúng lên, không có ai tổ chức (ai đòi, ai bắt ), chẳng có binh thư, binh pháp còn quân giặc thì chuẩn bị bài bản, có quy mô, quy củ. Họ thất thế khi xing trận mà ngoài cật có một manh áo vải, trong tay cầm ngon tầm vông, còn kẻ thù lại có tàu sắt tàu đồng, đạn nhỏ, đạn to. Song chí căm thù, lòng yêu nước đã khiến những người nông dân trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ, liều mình như chẳng có ai. Ai cũng biết cái giá cuối cùng của hành động ấy. Nhưng nghĩa sĩ nông dân càng biết rõ điều đó:
“Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm trao mộ.”
Những nghĩa sĩ nông dân trở thành “những anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang” (Phạm Văn Đồng). Hình tượng người nghĩa sĩ chân đất lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam đã mang hình dáng đầy bi tráng. Nó như một tượng đài sừng sững tạc vào không gian lẫn với thời gian để nói với muôn đời rằng: Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
III. Kết bài:
Sự gắn bó, lòng yêu thương và cảm phục đã khiến Nguyễn Đình Chiểu ghi tạc vào thơ văn mình hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc thật bi tráng. Hình tượng ấy sức nặng của một thời đại “nước mắt anh hùng lau chẳng ráo” và tấm lòng yêu thương bi thiết của nhà thơ mù đất Đồng Nai – Gia Định. Những người anh hùng “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”. Còn nhà thơ của họ đã dựng lại tượng đài ấy “nghìn năm” trong ký ức tâm hồn của người đời bằng văn chương.